Kính chuyển đến quí vị bài viết nầy đọc để suy nghĩ coi những món ăn bài
thuốc mà quí vị chuyền tay từ người nầy qua người khác có đáng tin tưởng
hay không nhe.Thời gian qua tôi nhận rất nhiêù bài nói về các bài thuốc
từ các rau quả như : xoài , đu đu , mảng câù xiêm v.v và bài mới nhất
là bài măng tây trị ung thư nhưng không có trải qua một cuộc thực nghiệm
khoa học nào . Theo tôi biết th́ măng tây ăn nhiêù cũng rất độc hại cho
thận qua các bài nghiên cứu viết bằng tiếng Pháp mà tôi đă có dịp đọc
cách nay khá lâu .Thử nghĩ nếu măng tây trị được bệnh ung thư sao các
ngành y tế thuộc diện t́m kiếm không nghiên cứu để tạo ra thuốc với
liều lượng thích hợp để cứu người , sao các nhà bác học cứ để người ta
hàng ngày không biết bao nhiêu người chết v́ bệnh ung thư như thế
?Thuô'c tây tuy có phản ứng phụ nhưng có nghiên cứu lâm sàng kỹ lưỡng
trước khi phổ biến ra thị trường tiêu thụ và có ghi rơ ràng cách dùng
thế nào để tránh bớt phản ứng phụ...Trên mạng lưới internet ai cũng có
thể đặt chuyện viết một bài để gửi lên phổ biến cho nên rất là nguy hiễm
cho những ai nhẹ dạ tin theo... Kính chuyển.
NL


Thuốc tây, thuốc Bắc, thuốc Nam dưới mắt một bác sĩ tây y




Kính thưa quư vị, một hôm, có một bệnh nhân đến pḥng mạch, yêu cầu chúng tôi thử máu tổng quát. Là bác sĩ, trước
khi thử máu th́ cần phải biết tại sao bệnh nhân có yêu cầu này, v́ nhiều
khi bệnh nhân có những căn bệnh mà cuộc thử nghiệm tổng quát không phải
là thử nghiệm thích hợp nhất. Sau khi được hỏi bệnh cẩn thận, bệnh nhân
dứt khoát là không bị bệnh ǵ cả, chỉ muốn khám nghiệm tổng quát. Thấy
bệnh nhân trong độ tuổi giữa 45 và 49, cũng là tuổi mà bộ y tế muốn các
BS làm một cuộc khám nghiệm tổng quát, chúng tôi đồng ư cho bệnh nhân
thử máu.

Thật t́nh cờ, khi kết quả trở về th́ cho thấy bệnh nhân
bị suy gan khá trầm trọng. Tất nhiên tiếp theo đó những
thử nghiệm khác được tiến hành, để t́m hiểu thêm nguyên nhân của sự suy
gan, mà người Việt ḿnh thường gọi là nóng gan, như thử các bệnh viêm
gan do siêu vi khuẩn gây ra, siêu âm gan, và hỏi lại thật cặn kẻ việc ăn
uống cùng thuốc men của bệnh nhân. Nên biết, rượu hay thuốc làm giảm mỡ
(cholesterol) cũng thường là nguyên nhân làm cho "nóng gan".

Kết quả là không một nguyên nhân nào được t́m thấy, nhưng chính trong lần
khám nghiệm thứ ba này, bệnh nhân tiết lộ đang dùng thuốc Bắc, mặc dù
trong những lần khám nghiệm trước, đă được hỏi về những thuốc men mà
bệnh nhân sử dụng. Sau một thời gian ngưng uống liều thuốc Bắc này, gan
bệnh nhân trở lại b́nh thường.

Kính thưa quư vị, chúng tôi lớn lên ở VN, tuy không học qua Đông y, nhưng cũng nghe lơm bơm về khái niệm âm
dương ngũ hành, thổ sinh kim, thủy khắc hỏa vân vân. Khi ở VN th́ chúng
tôi học 4 năm đại học ngành hóa học, thấy người Tây phương chia vạn vật
ra làm hàng tỉ tỉ hợp chất khác nhau, mà thành phần đơn chất căn bản để
cấu tạo nên những hợp chất này là nguyên tố, như oxygen, carbon, sắt,
đồng, nitrogen vân vân. Té ra đời không thể nh́n đơn giản với kim mộc
thủy hỏa thổ mà đủ (quan niệm của Hy Lạp cách đây mấy ngàn năm cũng
tương tự như vậy, nhưng nay người ta đă tiến rất xa rồi). Khi sang Úc,
học ngành y, th́ chúng tôi được biết thêm cách thức Tây phương nghiên
cứu thuốc men.

Xin được vắn tắt về cách Tây y nghiên cứu một môn
thuốc trước khi thuốc này được đưa ra thị trường cho người bệnh dùng.

Một liều thuốc Tây căn bản, thường chỉ bao gồm một hợp chất (hoặc cao lắm
là vài hợp chất) trộn với chất bột không có tính thuốc. Sau khi thử trên
loài vật có hệ thống sinh lư tương đối giống con người và đă xác định
được hiệu quả của thuốc, người ta mới bắt đầu thử trên con người.

Ở giai đoạn thử trên con người này, hầu như luôn luôn người ta sử dụng
phương pháp gọi là "double blinded study". Xin đưa một thí dụ. Các bệnh
nhân có cùng một căn bệnh, sẽ được chia làm 2 nhóm. Một nhóm sẽ được cho
uống thuốc thật và một nhóm được cho uống thuốc giả (placebo), tức là
viên thuốc chỉ có chất bột mà không có hợp chất thuốc.
Bác sĩ cho thuốc cũng không hề biết viên thuốc ḿnh cho bệnh nhân uống là thực hay giả,
và tất nhiên bệnh nhân cũng không biết luôn. Do đó, người ta gọi là
"double blinded", cả hai, thầy lang và con bệnh, đều bị "bịt mắt". Người
biết ai uống thuốc thật, ai uống thuốc giả là những nhân viên hành
chánh, chưa hề gặp mặt các bệnh nhân.
Sau một thời gian dùng thuốc,
bệnh nhân được kiểm tra lại. Thí dụ như trong trường hợp thử nghiệm loại
thuốc giảm áp huyết, người ta sẽ đo lại áp huyết của bệnh nhân, và so
sánh với áp huyết trước khi dùng thuốc.
Cùng lúc, người ta hỏi bệnh nhân về các phản ứng phụ, như buồn nôn, chóng mặt vân vân, và đo đạc
những thay đổi khách quan khác như
thử máu xem gan có bị "nóng" (bệnh) hay không, công năng thận ra sao
vân vân. Sau đó người ta đưa sang thống kê để phân tích.
Nếu trường hợp 99% người uống thuốc thật khỏi bệnh, c̣n chỉ có 1% người uống thuốc
giả khỏi bệnh, th́ ta có thể kết luận là thuốc này công hiệu. Ngược lại,
nếu chỉ có 5% người uống thuốc thật hết bệnh và có 4% người uống thuốc
giả cũng khỏi bệnh, th́ có thể ta cũng thấy được uống thuốc hay không
cũng không khác ǵ nhau, tức là thuốc không nhiệu nghiệm.
Nhưng thông thường, kết quả không rơ rệt như vậy, mà có thể là 563/1000 người dùng
thuốc thật sẽ khỏi bệnh, 230/1000 người dùng thuốc giả hết bệnh. Như vậy
th́ thuốc thật có công hiệu không? Và thuốc giả th́ sao, v́ cũng có
người hết bệnh đó

Đến đây, vai tṛ của toán thống kê vô cùng quan trọng. Toán thống
kê cuối cùng sẽ cho ta một kết luận, kết luận rằng có thể nào v́ "rùa"
(t́nh cờ) mà có nhiều người uống thuốc thật khỏi bệnh hơn người uống
thuốc giả không. (chỉ số dùng để kết luận này được gọi là "p value", và
nếu nó nhỏ hơn 0.05 th́ kể như không thể nào thuốc thật "chó ngáp phải
ruồi" được). Song song đó, người ta cũng phải bảo đảm những bệnh nhân
tham gia cuộc thử thuốc không có những bệnh khác, hoặc không có uống
những thuốc khác.

Sở dĩ người ta phải so sánh người uống thuốc thật và thuốc giả là để loại đi vai tṛ của tâm lư ảnh hưởng lên người
bệnh (hiệu ứng tâm lư này rất quan trọng, gọi là placebo effect), v́
nhiều người chỉ nhờ tin
tưởng mà hết bệnh, nhất là đối với những chứng bệnh mà ta không thể đo
lường một cách khách quan được, thí dụ như bệnh nhức đầu. (Nhức, đau,
ngứa là những triệu chứng vô cùng chủ quan, chỉ có bản thân bệnh nhân
mới định lượng được thôi).

Và, sở dĩ người ta chú ư đến những yếu tố khác của bệnh nhân là v́ những yếu tố này có thể ảnh hưởng đến
căn bệnh. Thí dụ như một người nghĩ rằng v́ nhờ uống hà thủ ô mà tóc trở
nên đen, nhưng không chừng trong thời gian đó, người này ăn nhiều rau
giấp cá, mà chính rau giấp cá mới có tác dụng làm đen tóc th́ sao (chỉ
thí dụ như vậy mà thôi). Chắc chúng ta không biết được trong 1000 người
uống hà thủ ô th́ có bao nhiêu người tóc bạc trở thành đen (e rằng không
có đến 1 người, nhờ vậy mà thuốc nhuộm tóc vẫn bán chay re re).

Kính thưa quư vị, đó là quá tŕnh thử nghiệm và thực nghiệm của Tây y, mà theo
chúng tôi, y học cổ truyền của chúng ta không có. Y học cổ truyền dựa
trên kinh nghiệm tích lũy, nhưng không có thống kê rơ ràng.

Chúng tôi được biết có rất nhiều bệnh nhân tin rằng uống thuốc Bắc sẽ khỏi
một số bệnh nan y, tốn tiền rất nhiều, nhưng cuối cùng trong một ngàn
người dùng thuốc này có bao nhiêu người khỏi bệnh và bao nhều người...
quy tiên, ta cũng không biết. Một số người do nh́n thấy một vài trường
hợp cá biệt rồi khái quát hóa, cho rằng liều thuốc đông y ấy có hiệu
nghiệm trên mọi người. Có lẽ là v́ Đông y thiếu thực nghiệm và thống kê.

Thứ đến, rất nhiều bệnh nhân than phiền về phản ứng phụ của Tây y.

Kính thưa quư vị, trong khi một viên thuốc Tây chỉ có một hay hai hợp chất, th́ một khúc
rễ cây, một túi mật, có hàng chục đến hàng trăm hợp chất trong đó. Như
vậy th́ "phản ứng không mong muốn" (unwanted effects) ắt phải nhiều hơn
rất nhiều. Một viên Morphine chỉ chứa có chất Morphine mà thôi, trong
khi đó nếu ăn một cây á phiện th́ ta cho vào cơ thể biết bao nhiêu tạp
chất khác. Vấn đề nằm ở hai chữ: LIỀU LƯỢNG.

Kính thưa quư vị, chắc chắn một số thuốc Ta, thuốc Bắc, thuốc Nam cũng có hiệu lực, nên
mới lưu truyền cả ngàn năm, nhưng sự nghiên cứu của những loại thuốc này
thực thua kém thuốc Tây rất xa. Nói đến thuốc Bắc thuốc Nam th́ chắc có
lẽ vua Càn Long, Tần Thủy Hoàng, các đại quan, phú hộ của Tàu là người uống nhiều nhất, cũng được toàn các
danh y, Hoa Đà, Biển Thước chẩn trị. Nhưng kết quả các vị ây ra sao,
chết lúc bao nhiêu tuổi, có mạnh khỏe hơn tổng thống Bush hay không, ta
cũng thấy rồi.

Các vị ngày xưa thường nói, nhân sinh thất thập cổ
lai hy, bây giờ với Tây y th́ nhân sinh thất thập mà "die", th́ là...
hơi yểu mệnh đó. Ngày nay, có rất nhiều cô chú bác đă xấp xỉ thất thập,
nhưng vẫn c̣n mạnh cuồi cuội, đi shop, đi du lịch, đi biểu t́nh rần rần,
so với các vị quan lớn, vua chúa ngày xưa th́ khỏe và thọ hơn nhiều, dù
không uống sâm nhung, dù không dùng cao hổ cốt, lộc nai, sừng tê giác.


Bài tâm t́nh về thuốc này không nhằm việc bài bác Đông y, mà chỉ để chúng
ta thấy được sự khác biệt
trong nghiên cứu giữa Đông và Tây y. Là một người theo ngành khoa học,
nh́n đời qua cặp mắt thống kê, cá nhân của chúng tôi chỉ được thuyết
phục khi nào thuốc Bắc, thuốc Nam, Đông y, Trung Y, có những nghiên cứu
tinh tế, chi tiết, với sự chứng minh của thống kê mà thôi.

Nhiều bệnh nhân khi gặp bác sĩ Tây y, thường hỏi thuốc này có những phản ứng
phụ ǵ. Hầu như lúc nào BS cũng biết, nếu không biết th́ mảnh giấy hướng
dẫn trong hộp thuốc cũng có ghi. Quư vị vẫn có thể dùng thuốc Bắc,
thuốc Nam, nhưng khi gặp các Đông y sĩ, hay Trung y sĩ, nên hỏi xem
thuốc ấy có tạo phản ứng phụ ǵ không. Điều này sẽ hữu ích cho hiểu biết
và sức khỏe của chúng ta.
 
Trích từ nguồn