Cách Paris chừng 200km về phía
bắc, thành phố Lens xuất hiện với những ngọn núi than coke, xa
xa trông như những Kim Tự Tháp Ai Cập nhưng lại là màu đen u ám.
Đó là xứ sở của những mỏ than miền bắc nước Pháp, một vùng mà tỷ
số góa phụ lên rất cao, v́ đàn ông ở đây quá lam lũ nên phần nhiều
chết sớm. Cách đó không xa, trên con đường hướng về thánh phố
Calais, có nhiều khu rừng rậm rạm ít ai lui tới. Xa hơn chút nửa
là một vùng đầm lầy ở Saint Omer, nổi tiếng là một khu du lich.
Vào muà hè, du khách đến để t́m sự tĩnh mịch hoang vu, có thể mướn
những chiếc thuyền nhỏ chèo một ḿnh trên những con lạch ngoằn
ngoèo hai bên bờ lau sậy để t́m cái thú cô đơn. Nếu đi đông trên
một chiếc tàu có người hướng dẩn th́ du khách được yêu cầu giữ
im lặng để thưởng thức trọn vẹn những tiếng động của đầm lầy, một
sự ḥa âm kỳ diệu của loài muôn thú hoang dă.
Trong cái khung cảnh đó, tôi đi
t́m những người Việt Nam đang bị bỏ quên. Dưới trời mưa lạnh của
miền bắc nước Pháp mà khí hậu thường là ác nghiệt, trong khi
vùng Calais đang được báo động đỏ v́ băo lụt, tôi lần ṃ hồi lâu
cũng tới được Angres, một làng nhỏ cách Lens chừng 20 km chung
quanh toàn là ruộng và rừng. Dân trong làng cũng biết đâu đó
đang có những người Việt Nam đang trốn chui trốn nhủi, nhưng họ
tỏ ra rất dè dặc, không phải sợ cho họ mà họ sợ cho chính những
người sans papier này. Cuối cùng tôi đánh bạo vào Ṭa Thị Xă để
hỏi thăm. May mắn thay, tôi được đón tiếp tử tế và hướng dẫn rơ
ràng. Tôi gặp một nữ nhân viên tên là Laurence Louchaert, tôi phải
viết ra đây để vinh danh sự sốt sắng và đầy nhiệt t́nh của một
công chức người Pháp. Bà vẻ cho tôi cái sơ đồ để đi đến chỗ người
Việt tập trung. Thấy sơ đồ quá ngoằn ngoèo tôi hơi lúng túng, Bà
Louchaert hiểu ư bảo tôi: "Thôi đươc, để tôi đưa ông đi ". Tôi
chưa kịp vui mừng th́ bà nói tiếp: "Ông cho tôi coi đôi giày ".
Tôi ngạc nhiên nghỉ bụng chẳng lẽ bà nghi ḿnh là shoe terrorist
hay sao mà đ̣i khám giày? Hôm nay tôi mang đôi giày đi rừng và
đưa cho bà coi, Bà vui vẻ mỉm cười:" Đường vào đó bùn lầy và
trơn trợt lắm, nếu ông mang giày khác chắc đi không nổi đâu".
Tôi theo sau xe bà Louchaert
khoản mươi cây số th́ rẽ vào một con đường đất quanh co. Đến ŕa
một khu rừng th́ bà cho mủi xe chỉa vào rừng rồi bóp ba tiếng
c̣i ra hiệu. Một lát sau một số người hiện ra xa xa trong rừng
và khi thấy chiếc xe quen thuộc của bà Louchaert, họ yên tâm tiến
về phía chúng tôi. Bà Louchaert giao tôi cho mấy người này để họ
dắt tôi vào trong rừng sâu, bà chào chúng tôi và lui xe ra về. Mấy
người này cho tôi biết bà này là ân nhân, đă nuôi ăn họ và giấu
họ ở đây.
Lội khoản 200 mét śnh lầy trơn
trợt, sợ tôi té nên hai cậu thanh niên kẹp tôi hai bên, tôi đến
được khu lều của những người Việt Nam đang ẩn trốn. Gọi là lều
nhưng thật ra chỉ là những tấm nylon chăng ngang chăng dọc, phần
nhiều để làm mái c̣n hai bên bỏ trống, và ngay ở giữa lều cũng
là bùn lầy v́ nước hai bên bắn vào. Ở giữa căn lều lớn là có một
tâm ván để làm bàn, một đống lữa đang cháy, có khoản chục người
đang bu quanh để sưởi, trong đó có hai người đàn bà. Người nào
cũng tỏ ra hết sức dè dặt, rụt rè và thận trọng.
Tôi xin phép đươc chụp h́nh th́
mọi người đều đồng thanh là không nên, v́ vậy tôi không dám nài
nỉ thêm để cho họ yên tâm. Tôi thấy họ như là những con chim bị
đạn, sợ tất cả, nghi ngờ tất cả, không biết tin vào đâu, bám vào
đâu. Sau khi cắt nghĩa cái lư do tôi t́m đến với họ, họ dần dần
yên tâm và kể lể nhiều chuyện với tôi. "Trại" này được lập ra từ
tháng Chín 2009. để nhận những người mới và một số người đă sống
trong những trại khác từ nhiều năm nay.
Ở đây chỉ có người Việt Nam
thôi, hiện có khoản năm mươi người, con số này lên xuống bất thường,
có khi lên đến cả trăm, có khi xuống c̣n vài người. Ở thời điểm
này, "nhập" nhiều v́ họ đă ra đi từ mùa hè ấm áp nay mới đến,
"xuất " ít v́ thời tiết xấu nên những vụ đột kích rời trại cũng
rất khó khăn. Những người đến có khi tự t́m đến, có khi do bà
Louchaert đem đến, những người đi th́ lằng lặng ra đi, không ai
biết đi đâu và đi bằng cách nào. Mỗi đêm thường có chừng năm hoặc
mười người đi bộ ra bến xe hàng cách đó chừng ba cây số để t́m
cách đi qua Anh. Một số đi thoát, một số bị bắt lại th́ bị giam
trong những trại tù ( camps de détention) ở Pháp, Ḥa Lan hoặc Đức,
hoặc bị trả về nước. Gần đây có một phụ nữ Việt Nam bị bắt và
giam ở Ḥa Lan tám tháng vừa mới được thả. Chưa có người Việt
Nam nào bị đưa về nước v́ họ nhất quyết liều chết để được ở lại
Những người này tuy sống chung
với nhau trong cùng một hoàn cảnh nhưng cũng xa lạ với nhau và
h́nh như cũng "giữ miếng" với nhau, mặc dù họ đều có chung một
tâm trạng là sợ bị bắt và sợ bị đưa về lại Việt Nam.Tất cả đều
không biết nói tiếng Pháp, một vài người biết bập bẹ vài tiếng
Anh nên nếu có sự giao thiệp với bên ngoài, ngay cả với bà
Louchaert th́ cũng rất khó khăn. Một lát sau, gần như họ tin tưởng
hơn nơi tôi nên câu chuyện có phần cởi mở hơn nhưng cũng không
tránh được sự dè dặt rụt rè. Chỉ có cậu trẻ nhất, 19 tuổi, ít thận
trọng và bạo phổi nhất nên cho tôi biết tên là Trần Mạnh Hùng đă
đi từ Đồng Hới vào khoảng tháng Ba năm nay. Một phần nửa đă có
gia đ́nh để lại bên nhà, tất cả đều đi từ Việt Nam bằng đường bộ
từ khoảng đầu năm đến nay.
Trước mặt tôi, một "niên trưởng
" 47 tuổi ( nhỏ hơn tôi gần 30 tuổi ! ) cho biết là đă đi từ Ḥa
B́nh cách đây năm tháng. Một thanh niên có vẽ lanh lẹ nhất đă đi
từ vùng Hà Nội nhưng nhất định không cho tôi biết đích xác là ở
đâu. Không có người nào đi từ miền Nam hay phía nam tỉnh Quảng
B́nh, tức là những người bỏ nước ra đi này đă sống dưới chế độ cộng
sản từ xưa đến nay, phần lớn sinh sau năm 1975..
Một đường dây ở Việt Nam buộc
những người này phải trả từ 200 đến 300 đô la để đươc chở qua
Tàu bằng xe lửa rồi từ đó họ phải tự túc.Họ tiếp tục di chuyển bằng
đủ mọi phương tiện, sống bờ sống bụi bằng đủ mọi cách để qua Nga,
xuyên qua các nước Đông Âu , Đức rồi cuối cùng đến Pháp mà họ
cho là trạm áp chót, v́ mục tiêu từ khi c̣n ở Việt Nam phải là
Anh Quốc, thiêng đàng của tỵ nạn theo họ. V́ vậy số phận đă đưa
đẩy họ tới vùng śnh lầy Calais này, bờ biên giới với nước Anh.
Cách đây mấy năm, Pháp phải đóng cửa trạm tiếp đón ở Sangatte ở
ngay trên miệng hầm xuyên qua biển Manche, v́ nhiều người tỵ nạn
bất chấp hiểm nguy đă t́m cách qua Anh bằng đường hầm.
Trong cuộc hành tŕnh dài bằng
phần nửa ṿng trái đất, họ thường bám trên các xe vận tải hạng nặng
xuyên qua Châu Âu. Trốn trong những thùng chứa hàng trong xe, họ
phải ép xác, có khi chịu đựng không ăn uống trong nhiều ngày.
Khám xét những xe vận tải đầy ắp hàng đi từ nước này qua nước
khác làm cho cảnh sát biên pḥng phải điên đầu v́ không phải là
chuyện đơn giản lúc nào cũng làm đươc. Năm ngoái, hải quan Pháp
đă khám phá được mười mấy xác chết người Á Châu v́ ngột ở trong
xe hàng, không biết có phải là Việt Nam không. Ngày nay hải quan
ở Calais và ở Douvres có một phương pháp khoa học hơn, là đo lượng
khí cac-bô-nic (CO2) thải ra để biết trong xe có người hay không.
Cuộc nói chuyện đi dần tới chỗ
thân mật hơn. Một bác đă lớn tuổi cho biết là đă đi từ vùng Nghệ
Tĩnh. Tôi buộc miệng pha tṛ:" Quê hương Bác Hồ". Ông này diềm tỉnh
trả lời:" Vâng, tôi sinh ra ở quê hương Bác, nhưng không muốn chết
đói ở quê hương Bác." Một người trẻ hơn, đi từ Quảng B́nh, cho
biết là đă bỏ lại vợ và hai đứa con nhỏ ở lai v́ :" Chỉ c̣n một
miếng ruộng nhỏ, cày cấy cho lắm cũng chỉ đủ nuôi một miệng ăn
thôi, tôi phải ra đi để bớt đi một miệng".Trong khi đó, mức xuất
cảng gạo ở Việt Nam đứng vào hàng nhất nh́ thế giới.
 |
Chính quyền Pháp luôn t́m cách trả họ
về lại Việt Nam |
Tôi liên tưởng đến truyện "Anh phải sống" của Nhất Linh, v́
trong cặp vợ chồng, một người phải chết để cho người kia sống
nuôi con. Tôi hỏi anh bạn đi từ Hà Nội: " Nghe nói kinh tế trong
những năm sau này phá triển lắm phải không?" Anh trả lời:" Vâng,
đúng thế, bây giờ Hà Nội xây nhiều nhà cao tầng, nhiều khách sạn
năm sao, nhưng nhà càng cao th́ khoảng cách giàu nghèo càng lớn."
Nh́n hai cô gái, tuy xơ xác nhưng mặt mày c̣n xinh xắn, tôi đùa:"
Sao không ở lại Việt Nam để lấy chồng mà qua đây làm ǵ cho khổ
thế này?" Cô trẻ, 22 tuổi, ngồi im lặng suy tư, c̣n cô lớn, độ
ba mươi tuổi, có vẻ có tŕnh độ khá, chua chát:" Ở Việt Nam có
thể bị bán cho Đại Hàn, cho Đài Loan. Giữa hai cái chết, chúng
em lựa cái chết ít nhục nhă hơn." Tôi hối hận v́ câu nói thiếu tế
nhị của tôi đă gợi trong ḷng cô một nỗi ray rứt vô hạn.
Những mẫu chuyện xót xa thực sự
trên phải ghép lại thành một cuốn phim dài, thật dài, mới nói hết
những ǵ trong tâm tư họ và những ǵ đă xảy ra ở Việt Nam sau
hơn ba mươi năm ḥa b́nh và thống nhất đất nước.
Gặp người Việt Nam họ vừa mừng
vừa sợ. Họ sợ nhất là người của Ṭa Đại Sứ Việt Nam, đến điều
tra để tao rập đưa họ trở lại Việt Nam. Họ đang cho ḿnh là kẻ
thù của nhà nước, có thể bị xử lư. Họ cũng biết thường khi chính
phủ Pháp trả về th́ cho một ít tiền, không biết có đến tay họ
không, hoặc chính phủ Pháp có thể trao đổi bằng một số tiền nào
đó để bớt đi một gánh nặng xă hội. V́ vậy họ kín đáo, nghi ngờ
và h́nh như có một thứ kỷ luật vô h́nh nào đó đang đè nặng lên họ.
Mùa đông tới, khắp nước Pháp
đang rầm rộ bắt đầu những biện pháp cứu trợ. Từ những Resto du
Coeur cho đến những Samu Social cứu trợ cấp thời, năm nào cũng
đươc chuẩn bị chu đáo nhưng vẫn có nhiều thiếu sót. Lẽ tất nhiên
là họ cũng lo tới cho những người Việt Nam này, không phải chỉ
v́ ḷng nhân đạo không thôi mà c̣n là một nghĩa vụ cao quư của
con người đối với con người.Tuy nhiên họ găp một trở ngại là những
người này không dám ra khỏi rừng, v́ lúc nào cũng nơm nớp sợ "ông
kẹ" ṭa đại sứ VC đến làm thịt . Chính vị ân nhân, bà Louchaert
đă thổ lộ với tôi như vậy bằng điện thoại sau khi tôi thăm viếng.
Nếu không có những ân nhân đó đem thực phẩm cứu trợ tới th́ những
người Việt Nam này đă biến thành những Tarzan thực sự của thế kỷ
21.
V́ trời tối, tôi phải về v́ đường
xa, anh em lịch sự đưa tôi ra và chào hỏi rất nhă nhặn. Trên
khuôn mặt sáng sủa của mọi người thấy rơ một ư chí cương quyết
v́ những quyết định của họ là có suy nghĩ chứ không phải hồ đồ
nông nổi. Chỉ có một điều là trong suốt cuộc gặp gỡ, tôi không hề
thấy được một nụ cười.
Trên đường về, khi nghe radio
nói tới hội nghị Việt kiều ở Hà Nội, tôi ray rứt bởi câu hỏi là
những người Việt Nam đang ở trong rừng Angres này có phải là đối
tượng của Nghị Quyết 36 không, hay đối tượng của nó là mấy ông
Việt kiều có lắm đô la? Họ có c̣n được gọi là " khúc ruột ngàn
dặm" không hay chỉ là một khúc ruột thừa phải cắt đi ?
Paris, ngày 30
tháng Mười Một 2009
© Phương-Vũ Vơ Tam-Anh |