Câu chuyện buồn về những người lính thợ Đông Dương ở Pháp
05.07.2010

 

Lần đầu tiên, số phận buồn tủi của khoảng 2 vạn người Việt Nam bị cưỡng bức sang Pháp những trong 2 cuộc thế chiến được nghiên cứu, t́m hiểu một cách tương đối đầy đủ và nghiêm túc.
hông thiếu những sách giáo khoa hay tài liệu lịch sử có nhắc đến số phận của những người nông dân ở cả ba kỳ Bắc, Trung, Nam bị chính quyền thực dân đưa sang Pháp, làm bia đỡ đạn trong cuộc chiến với nước Đức hoặc làm công trong những nhà máy sản xuất vũ khí. Họ được nhắc tới như những người con đất Việt, v́ nhiều lư do đă sang Pháp, phục vụ cho cỗ máy chiến tranh, đặc biệt trong giai đoạn chiến thế chiến 2 (1939-1945).

Trong những tác phẩm của ḿnh, cố bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, đồng thời cũng là một nhà nghiên cứu lịch sử, có nhắc tới chuyện ông khám và chữa bệnh cho những người lính thợ Việt Nam khi ông ở Pháp. Đâu đó, chuyện về những người Việt mang tới cho vùng đất Camarque (Pháp) giống gạo ngon nổi tiếng, nhờ kinh nghiệm làm nông nghiệp từ quê hương cũng từng được nhắc tới.

Tuy nhiên, những thông tin về họ dường như chưa bao giờ trọn vẹn như trong nghiên cứu của Pierre Daum, nhà báo, nhà nghiên cứu lịch sử người Pháp. Sau ba năm điều tra từ vùng ngoại ô Paris và Marseille, cho đến Hà Nội và những làng quê hẻo lánh ở Việt Nam, Pierre Daum đă t́m được 25 nhân chứng cuối cùng c̣n sống để viết lại những trang cay đắng của lịch sử thuộc địa Pháp ở Đông Dương.

Theo nghiên cứu của Pierre Daum, thế chiến 2 bùng nổ, nước Pháp không chỉ cần binh lính, mà c̣n cần những người thợ trong các xưởng vũ khí, để thay thế cho công nhân Pháp đă đi lính. Năm 1939 nước Pháp đă đưa 20.000 người Đông Dương từ thuộc địa Đông Dương sang Pháp để làm những công việc cực nhọc, như trộn thuốc súng. Phần lớn họ bị tuyển mộ cưỡng bức.

 


Nhà báo, nhà nghiên cứu lịch sử người Pháp, Pierre Daum thuyết tŕnh về số phận của những người lính thợ Đông Dương tại Pháp. Ảnh: Tuấn Linh

 
Cập bến Marseille, họ bị đưa vào nhà tù Baumettes, rồi được phân bổ đi khắp nước Pháp, đến những xí nghiệp thuộc ngành quốc pḥng, và được gọi là “lính thợ không chuyên” - ONS.  Bị kẹt lại ở chính quốc trong suốt thời gian nước Pháp thua trận, tuy không c̣n làm trong các nhà máy quân sự, nhưng họ vẫn bị nhốt trong những trại có kỷ luật rất nghiêm khắc, bị bóc lột sức lao động, trở thành món hàng của Nhà nước Pháp, cho các công ty công hoặc tư thuê, mà không được trả một đồng lương tử tế.

T́nh trạng đen tối đó vẫn duy tŕ rất lâu sau khi nước Pháp được giải phóng. Từ năm 1946 họ được đưa trở về Việt Nam một cách nhỏ giọt, và măi đến năm 1952 những người cuối cùng mới được trở về tổ quốc. Khi đó, cũng có khoảng một ngh́n người đă chọn định cư tại Pháp.

Những nghiên cứu công phu và nghiêm túc của một nhà báo Pháp phần nào làm sáng tỏ một trang lịch sử u ám của nước Pháp, đồng thời, tác động đến thái độ của Nhà nước Pháp đối với những đóng góp của người lao động Đông Dương. Đến thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, Nhà nước Pháp mới có động thái ghi nhận những đóng góp của những người lính thợ. Tuy nhiên, lương hưu, trợ cấp và bảo hiểm xă hội... vẫn là vấn đề bị bỏ ngỏ. Trong khi đó, không ít những cựu lính thợ đă phải sống khó khăn trong quăng đời c̣n lại.

Dưới đây là một số h́nh ảnh về những người lính thợ Đông Dương và số phận của họ:


 

Thường được gọi là lính thợ nhưng về mặt hành chính những Việt Nam bị đưa sang Pháp một cách cưỡng bức nằm trong sự quản lư của Bộ Lao động - Xă hội thời bấy giờ. Trên danh nghĩa họ không phải là lính. Tuy nhiên, công việc của họ là sản xuất súng đạn, phục vụ chiến  tranh. Ảnh chụp những người lính thợ Đông Dương trong trại Mazargue ở Marseille. Ảnh do Pierre Daum sưu tầm.


Người trong ảnh là ông Phạm Văn Nhân, thông ngôn trong đoàn lính thợ. Dựa vào số hiệu của ông (ZTw605) có thể biết, ông ra đi từ Bắc Kỳ (tiếng Pháp gọi là Tonkin).


Đặt chân lên đất Pháp, những người lính được đưa vào nhà tù rồi phân ra các trại. V́ họ là những người làm công nên các trại này không thực hiện chế độ giám sát chặt chẽ, cổng và cửa không khóa. Trong ảnh là trại Bao Dai à La Ferté. Mỗi căn nhà gỗ có thể chứa tới 60 người. Ảnh do nhân chứng Phạm Văn Nhân chụp.


Ở các trại vào mỗi buổi sáng (tầm 7-8h), những người lính thợ được yêu cầu tập trung ở sân trại để chào cờ (Pháp), trước giờ làm việc. Trong ảnh, đại úy người Pháp Guérin thị sát buổi chào cờ ở một trại lính thợ, vào ngày 1/4/1941.


Trong giai đoạn khó khăn, những người lính thợ thường xuyên bị bỏ đói. Thực phẩm không hề thiếu, nhưng những người Pháp quản lư trại đă "ăn chặn" và bán ra chợ đen khẩu phần của họ. Trong ảnh, một người thông ngôn dũng cảm đă đề đại yêu cầu được cung cấp thực phẩm đầy đủ với đại úy Crouvezie ở trại Vénissieux.


Ngoài việc bị lao động cưỡng bức tại các xưởng máy, phục vụ cho Nhà nước Pháp thời đó. Những người lính thợ c̣n phải tham gia lao động tại địa phương, theo những hợp đồng mà họ không hề có tiếng nói trong sự dàn xếp giữa người quản lư trại và dân địa phương.


Chính công sức và sự tư vấn của những người lính thợ, có gốc gác là nông dân của một nước có nền nông nghiệp lúa nước phát triển đă giúp dân vùng Camargue tạo ra giống gạo ngon nổi tiếng. Ngày 10/12/2009, tại thành phố Arles, miền Nam nước Pháp, chính quyền địa phương đă trao tặng huy chương cho những người lao động Đông Dương c̣n sống sót như biểu hiện vinh danh những người lao động đă đóng góp vào sự phát triển của nước Pháp sau Thế chiến 2 và ngày nay. Ảnh chụp 2 người lính thợ canh tác trên đồng ruộng ở vùng Camargue vào năm 1942.


Trong những thời khắc khó khăn, những người lính thợ vẫn luôn giữ ngọn lửa ái quốc trong tim. Bức ảnh trên chụp một cuộc biểu t́nh của những người lính thợ với khẩu hiệu "Hồ Chí Minh muôn năm", vào ngày 17/9/1946. Đây là thời điểm Việt Nam mới giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu phái đoàn của Chính phủ Việt Nam đàm phán với Chính phủ Pháp, nhằm t́m một giải pháp ḥa b́nh cho Đông Dương. Thời gian này, hầu hết những người lính thợ vẫn chưa thể hồi hương dù chiến tranh thế giới thứ 2 đă kết thúc.


ăi đến những năm 1950, những người lính thợ mới có điều kiện về nước. Số phận mỗi người một khác, nhiều người trong số họ bị coi là thành phần phục vụ nước Pháp (khi đó là quốc gia xâm lược Việt Nam). Trong ảnh là cụ Chu Văn Ngạn, một trong những lính thợ Đông Dương tại Pháp. Ảnh do Pierre Daum chụp vào năm 2007, khi ông này đến Việt Nam t́m nhân chứng cho công tŕnh nghiên cứu của ḿnh.


Trong những năm 1950, một số thành viên của các trại quản lư lính thợ quyết định ở lại Pháp. Trong ảnh là ông Lê Hữu Thọ và vợ ở Pháp. Khi c̣n trẻ, ông Thọ làm thông ngôn giữa lính thợ Đông Dương và những người quản lư. Bức ảnh do Pierre Daum chụp năm 2007.


Đến nay, chỉ c̣n hơn 20 nhân chứng người Việt liên quan đến ONS c̣n sống sót. Trong ảnh là cụ Phan Văn Năm, 95 tuổi, sống tại Quảng Xương, Thanh Hóa. Theo lời kể của cụ và gia đ́nh: Cụ Năm bị cưỡng bức lao động trong diện ONS từ năm 1939. Sau đó, cụ trốn trại và ẩn náu tại một gia đ́nh bác sĩ người Pháp (có vợ là người Việt Nam). Năm 1948, khi có điều kiện cụ về nước. Một thời kỳ, cụ bị coi là "ôm chân đế quốc" và chịu nhiều kỳ thị. Ảnh: Tuấn Linh

Trích từ nguồn
Thông tin lượm lặt